TopBanner

 



Chữ người tử tù cũng như Bữa rượu máu là hai truyện ngắn trong tập Vang bóng một thời (1940), thể hiện rất rõ tinh thần dân tộc của nhà văn Nguyễn Tuân.

Tên công sứ và tên tổng đốc, các vị Thủ hiến đứng đầu tỉnh đã “thưởng thức” một cách hả hê “bữa rượu máu” trên cái án tử hình 12 nghĩa quân Bãi Sậy. Cho nên một trận gió lốc oán hờn đã “đuổi theo các quan đang ra về”, hất tung “cái mũ trắng trên đầu quan công sứ” lăn mấy vòng trên bãi cỏ! Đến Chữ người tử tù thì thái độ nhà văn ca ngợi những chính trị phạm, những con người “khí phách”, những kẻ “chọc trời quấy nước”... đã quá rõ.  

Tác phẩm " Chữ người tử tù "

Hình tượng ông Huấn Cao chắc chắn có quan hệ tới Cao Bá Quát, một nhà thơ tài hoa, phóng khoáng (Văn như Siêu, Quát, vô tiền Hán) đã từng làm Hành tẩu ở bộ Lễ rồi bị giáng chức, làm Giáo thụ phủ Quốc Oai (Sơn Tây), tham gia cuộc khởi nghĩa của nông dân Sơn Tây chống lại triều đình (1854) rồi sau đó bị giết, bị triều đình Tự Đức ra lệnh tru di tam tộc. Huấn Cao là một hình tượng đẹp với bóng dáng lồng lộng, đầy khí phách và tài hoa trong tác phẩm Nguyễn Tuân. Con người được lí tưởng hóa này cũng như những kẻ tài hoa, những giang hồ lãng tử khác trong Vang bóng một thời là hình bóng của Nguyễn Tuân, là ước mơ của Nguyễn Tuân. Bởi vì các nhân vật lí tưởng trong văn học lãng mạn - tuy có thể, bắt nguồn từ một nguyên mẫu ngoài cuộc đời - nhưng suy đến cùng đều phản ánh tính cách của nhà văn yêu nước, có tinh thần dân tộc đậm đà, cho nên ông tìm thấy ở Cao Bá Quát - một nhà nho yêu nước, một con người vì nghĩa lớn dám đứng về phía nhân dân chống lại triều đình - một tâm hồn đồng diệu, một hình ảnh đẹp. Nhưng Nguyễn Tuân mê Huấn Cao còn vì một lí do khác, Huấn Cao không chỉ là một kẻ “chọc trời quấy nước”, có “cái hoài bão tung hoành” mà còn là một nghệ sĩ tài hoa, chữ viết rất đẹp. Viên quản ngục đã từng mơ ước “Có được chữ ông Huấn Cao mà treo là một vật báu trên đời...” Chính nhờ thêm cái chất nghệ sĩ tài hoa đó mà Huấn Cao mới nhập vào đám nhân vật tài hoa, tài tử của Nguyễn Tuân, vào cái tiểu thế giới của Nguyễn Tuân mang dáng dấp phong cách Nguyễn Tuân.

Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân, người nghệ sĩ chỉ có một tâm hồn yêu cái đẹp, đã đem cái tôi tài hoa, khinh bạc, kênh kiệu của mình chống lại cái xã hội “ối a ba phồng”, cái xã hội ô trọc của những kẻ giàu lên một cách hỗn láo, cái xã hội ăn hiếp người của bọn con buôn, chỉ điểm, mật thám. Lạc lõng giữa cái xã hội sống bằng tàn nhẫn, lừa lọc ấy là một đám nghệ sĩ tài hoa, tài tử, những kẻ giang hồ phiêu lãng, chỉ đem cái tình cái tài ra đối đãi với nhau. Viên quản coi ngục còn chút thiên lương và Huấn Cao thuộc loại người hiếm hoi này.

- “Ta nhất định không vì vàng ngọc hay quyền thế, mà phải ép mình viết câu đối bao giờ. Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi. Ta cảm thấy lòng biệt nhỡn hiền tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.

Huấn Cao là một nhân vật. lãng mạn tiến bộ. Các nhân vật lãng mạn ít nhiều đều được phóng đại và lí tưởng hóa. Ở đây tác giả xây dựng một cặp nhân vật có tính cách gần giống nhau (quản ngục và Huấn Cao) và nhân vật quản ngục sẽ làm tôn lên vẻ đẹp cao cả của Huấn Cao. Trước khi Huấn Cao xuất hiện thì người tử tù này đã được thầy trò viên quản lí ngục khen là “văn võ đều có tài”, là người nổi tiếng tỉnh Sơn về “cái tài viết chữ nhanh và rất đẹp”. Và cái án tử hình của Huấn Cao dường như cũng làm cho trời đất quạnh quẽ, mịt mùng sau tiếng trống thu không của thành phủ, như muốn vĩnh biệt một người anh hùng: “Tiếng dội chó sủa ma, tiếng trống thành phủ, tiếng kiềng mõ canh nổi lên nhiều nhiều. Bấy nhiêu thanh âm phức tạp bay cao lần lên khỏi mặt đất tốt, nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị muốn từ biệt vũ trụ”. Kết thúc truyện ngắn, Huấn Cao nổi lên như một thần tượng. Sau khi cho chữ, người tử tù “khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng trẻo với những nét chữ vuông vắn, tươi tắn, nó nói lên những cái hoài bão, tung hoành của một đời con người... Ngục quan cảm động, vái người tù một cái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.

Sự đối lập giữa lí tưởng và hiện thực, giữa tính cách và hoàn cảnh là đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa lãng mạn. Huấn Cao và viên quản ngục cũng là những người xa lạ với hoàn cảnh, đứng cao hơn hoàn cảnh: Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Không chỉ xa lạ mà còn đối lập với hoàn cảnh: “Ông trời nhiều khi hay chơi ác đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một dòng cặn bã”. Nguyễn Tuân đã sử dụng rất thành công thủ pháp đối lập đó ở phần kết thúc tác phẩm. Cái đêm người tử tù cho chữ viên quản ngục thật là một tình huống kì lạ, thật tương phản, đúng là “một cảnh tượng xưa nay chưa tùng có”. Những tình huống kì lạ đã góp phần làm nổi bật tính cách của những nhân vật lãng, mạn, những con người đứng cao hơn hoàn cảnh, không chịu sự tác động của hoàn cánh khách quan. Ngay trong tiểu thuyết hiện thực của Đôtxtôiépxki đôi lúc cũng có những tình huống kì lạ như vậy. Một cô gái điếm, một kẻ sát nhân tụ và khí phách, họ đã chứng tỏ có một “thiên lương”, một cái tâm, nên dù sóng giữa cái xấu vẫn “không phải là kẻ xấu”. Đó là những “thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ” như lời tác giả viết về quản ngục. Cái tư thế “khúm núm” giọng nói nghẹn ngào vì nước mắt và cái cúi đầu “xin bái lĩnh” sau khi nghe lời ông Huấn Cao khuyên nhủ quản ngục, cái “run run” khi bưng chậu mực của thầy thư lại, không phải chứng tỏ sự quỵ lụy hèn hạ của hạng người kém nhân cách của họ mà làm họ trở nên đẹp hơn. Bởi vì đó là sự “cúi đầu vái lạy hoa mai”, là niềm cảm phục, sự xúc động, lòng tôn kính sâu sắc trước cái đẹp, cái cao cả - những cảm xúc cao quý chỉ có ở những con người có thiện cảm, có chân tâm.

Có thể nói, đoạn viết ông Huấn Cao “cho chữ” quản ngục trong nhà giam là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn rất tầm vóc Chữ người tử tù. Bút pháp nhà văn tỏ ra điêu luyện, rất sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh; chi tiết nào cũng gợi cảm, đầy ấn tượng. Ngôn ngữ của Nguyễn Tuân ở đây chẳng những phong phú, sống động mà như có hồn, có nhịp điệu, có dư ba. Một không khí cổ kính, trang nghiêm, đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên từ đoạn văn. Đọc xong dòng chữ cuối cùng của đoạn văn, người đọc không khỏi không cảm thấy sững sờ, xúc động trước một cảnh tượng mang vẻ đẹp lớn lao, phi thường, biểu lộ cái tâm và cái tài của nhà văn lớn Nguyễn Tuân.



Đăng nhận xét

 
Top